Phân tích nhân vật Liên trong Hai đứa trẻ

Phân tích nhân vật Liên trong Hai đứa trẻ

Hướng dẫn

Bài tập làm văn phân tích nhân vật Liên trong Hai đứa trẻ của Thạch Lam lớp 11 bao gồm dàn ý phân tích nhân vật Liên trong Hai đứa trẻ và các bài văn mẫu chọn lọc. Hy vọng tài liệu này sẽ giúp các bạn học sinh phân tích nhân vật Liên trong Hai đứa trẻ hay nhất.

Dàn ý phân tích nhân vật Liên trong Hai đứa trẻ

I. Mở bài

– Liên là nhân vật trong truyện của Thạch Lam

– Tâm trạng của nhân vật Liên là tâm trạng trung tâm của truyện

 

– Tính các và tâm hồn của nhân vật được thể hiện qua ánh mắt quan sát và những suy nghĩ khi sống tại một huyện nghèo

 

– Là một nhân vật được tạo dựng với nhân vật có tâm hồn đẹp tiềm ẩn

 

II. Chi tiết

1. Cô bé có tâm hồn nhạy cảm tinh tế nhân hậu của một đứa trẻ biết yêu thương.

a. Yêu thiên nhiên

– Cảnh ngày tàng:

+ Tiếng trống thu không

 

+ Tiếng ếch nhái kên ran ngoài đồng ruộng

 

+ Tiếng muỗi vo ve

 

+ Bầu trời hoàng hôn làm cô bé ưu tư hơn

 

– Không chỉ yêu cảnh vật, bằng tâm hồn mình Liên yêu luôn cảnh vật nơi đây.

 

– Quan sát cảnh phiên chợ tàn Liên cảm nhận được sự tiêu điều của vùng quê nghèo khí này

 

– Liên yêu mảnh đất này đến nổi thuộc luôn cả nùi cát bụi

 

– Liên tìm thấy ở vùng quê nghèo khó này có vẻ đẹp bình dị và đầy chất thơ

 

– Cảm nhận về cảnh đẹp buổi đêm rất trong trẻo

 

=> Tâm hồn của Liên luôn yêu thiên nhiên và có tình cảm đặc biệt với vùng đất nghèo này.

 

b. Thông cảm cho nổi khổ của con người tại vùng đất nghèo

– Liên yêu và cảm nhận được cuộc sống cơ cực của người dân quê

– Ngoài đồng cảm với những người nghèo khó Liên còn cảm nhận được sự bế tắc tù đọng trong cuộc sống của người dân.

 

– Cái nhìn của Liên thấm đượm tình yêu sâu xa

 

=> Một tâm hồn trẻ thơ trong sáng, giàu tình yêu

 

2. Một cô bé có ước mơ và hướng tới tương lai

a. Tâm hồn luôn hướng về ánh sáng

– Trong màn đêm em luôn tìm một ánh sáng từ một nơi xa

– Liên ngước lên trời tìm những vì sao sáng

 

– Liên còn tìm ánh sáng với những ngọn đèn

 

– Tâm hồn em như một mầm cây khỏe khoắn luôn hướng về nơi có ánh sáng

 

b. Hướng tới tương lai

– Liên cố thức đợi chuyến tàu để bán hàng, đó không phải là lí do, mà là em đợi tàu để được nhìn thấy một cộc sông náo động, một nguôn sáng rực r

– Con tàu như một cuộc sống khác, một thế giới khác

 

– Cô bé đón tàu với tất cả niềm hân hoan và vui sướng

 

III. Tổng kết

– Một tâm hồn ngây thơ trong sáng, yêu thiên nhiên, yêu con người

– Biết nhìn về tương lai và có mơ ước.

 

Bài văn mẫu phân tích nhân vật Liên trong Hai đứa trẻ

Phân tích nhân vật Liên trong Hai đứa trẻ – bài 1

 

Thạch Lam là một ngòi bút truyện ngắn được nhiều người yêu thích Không phải vì cốt truyện đặc biệt, vì tình tiết li kì, mà chủ yếu là do ông đã sáng tạo ra một lối truyện ngắn: loại truyện tâm tình. Sức hấp dẫn của truyện ngắn Thạch Lam là ở tâm trạng nhân vật. Có thể thấy điều đó qua tâm trạng cô bé Liên đêm đêm thức đợi xem chuyến tàu đi qua phố huyện trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của ông.

 

Vì sao đêm nào cũng vậy, Liên (và em) đều cố thức để đợi xem chuyến tàu đi qua phố huyện? Tâm trạng thức đợi tàu của Liên như thế nào? Muốn hiểu được điều đó phải bắt đầu từ cuộc sống của em ở cái phố huyện này.

Đó là cuộc sống buồn tẻ, đơn điệu, tàn lụi và đáng thương nơi phố huyện trong thời khắc của một ngày tàn. Phiên chợ chiều đã vãn, phô bày tất cả cái nghèo nàn, cái tiêu điều xơ xác trong hình ảnh những đứa trẻ lom khom tìm kiếm, nhặt nhạnh trong rác rưởi, và tiếng trống thu không dội xuống phố huyện, từng tiếng, từng tiếng mòn mỏi, rời rạc, buồn thấm thìa… Rồi đêm tối bao phủ kín mít phố huyện, bủa vây những kiếp người sống lầm lũi tội nghiệp như những cái bóng: mẹ con chị Tí hàng nước, bác phở Siêu, gia đình bác xẩm với manh chiếu, chiếc chậu thau sắt và đứa bé bò lê la trên rác bẩn, một bà lão điên mua rượu uống cười sằng sặc… Đến mức cái ánh lửa từ thùng phở bác Siêu chỉ hắt ra một vầng sáng con con và ngọn đèn leo lét trên chõng hàng nước chị Tí cũng “chỉ chiếu sáng một vùng leo lét trên chõng hàng nước chị Tí cũng “chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ” – biểu tượng về những kiếp sống nhỏ nhoi leo lét, vô nghĩa giữa đêm tối mênh mông của cuộc đời. Hình ảnh ngọn đèn con của chị Tí cứ trở đi trở lại đến bảy lần trong mấy trang truyện ngắn như một ám ảnh không thôi về cuộc sống héo hắt, tội nghiệp nơi phố huyện nghèo nàn, tăm tối.

Chính giữa cảnh điêu tàn như vậy của phố huyện, Thạch Lam đã miêu tả tâm trạng khắc khoải chờ đợi chuyến tàu của Liên. Đó là cô bé đã từng có những ngày sống ở một nơi không đến nỗi nghèo khổ và tối tăm như thế. Với Liên, nơi ấy, Hà Nội luôn đọng lại một kỉ niệm xa xôi và mơ hồ nhưng bao giờ cũng êm đềm, đẹp đẽ rực rỡ ánh sáng và niềm vui. Ngày nào cũng giống hệt ngày nào, cuộc sống cứ lặp lại một cách đơn điệu, tẻ ngắt: sáng dậy mở cửa dọn hàng, bán hàng; chiều tối lại kiếm tiền, thu hàng – và đó là những món hàng nhỏ nhoi không hề thay đổi: một bao diêm, một cuộn chỉ, mấy bánh xà phòng… Chi tiết chiếc chõng tre cũ, sắp gãy được Thạch Lam đưa vào đây thật đầy ý nghĩa: cuộc sống của hai đứa trẻ lớn lên sao mà đã sớm già nua tàn tạ! Cái thế giới mà Liên và em gái đang sống, đang tiếp cận ngày này qua ngày khác chỉ có thế. Đâu là niềm vui biết lấy gì mà kì vọng?

Tâm trạng buồn chán của Liên đã dẫn đến khát vọng muốn thoát ra khỏi cuộc sống mà cô đang phải sống, dù chỉ để hi vọng vu vơ về một cái gì ở bên ngoài khác với cái thế giới ngưng đọng và tàn lụi này. Cô phải tìm đến một cuộc sống khác, dù cuộc sống ấy chỉ đi qua trong khoảnh khắc. Và cô đã tìm thấy nó trong hình ảnh đoàn tàu đi qua phố huyện mỗi đêm. Dù buồn ngủ ríu cả mắt, cô vẫn thức đợi tàu. Để được, trong chốc lát, thoát ra khỏi cuộc sống nhàm chán, đơn điệu hiện nay. Đoàn tàu là một nhu cầu bức thiết về tinh thần của cô, vì chuyến tàu là hình ảnh một thế giới khác đi qua cuộc đời cô, một thế giới giàu sang, nhộn nhịp, huyên náo và đầy ánh sáng. Trong cả một ngày dài buồn tẻ, đây là những giây phút bừng sáng và hạnh phúc của cô, dù là chỉ sống trong mơ ước tưởng tượng.

Bởi vậy, khi tàu đến thì tâm hồn Liên bị cuốn hút ngay vào đoàn tàu – đoạn này được Thạch Lam miêu tả sinh động và đẹp: “Liên phắt đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua, các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường. Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng”. Đoàn tàu đã đi qua nhưng tâm hồn Liên thi vẫn gửi hút theo nó mãi cho đến khi chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre. Đến lúc ấy, cô như sống trong mơ tưởng, trong sự tiếc nuối một cái gì đã qua nhưng dư vang của nó thì vẫn còn đọng lại rõ rệt trong tâm hồn mình: “Liên lặng theo mơ tưởng, Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn, đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu. Đêm tối vẫn bao bọc chung quanh, đêm của đất quê và ngoài kia, đồng ruộng mênh mang và yên lặng”. Trong tâm trạng cô bé có sự tương phản rõ rệt giữa hai cuộc sống: cuộc sống đẹp đẽ của ước mơ và cuộc sống nơi phố huyện.

Khắc họa thành công tâm trạng đợi tàu của bé Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ. Thạch Lam muốn nói với người đọc nhiều điều sâu sắc. Đó là cuộc sống buồn tẻ đáng thương của những đứa trẻ trong chế độ cũ, và suy rộng ra, là cuộc sống của những kiếp người nhỏ bé, vô danh, không bao giờ được biết đến ánh sáng và hạnh phúc, cuộc sống mãi mãi bị chôn vùi trong tăm tối, nghèo đói, buồn chán nơi phố huyện, và rộng ra, trên đất nước còn chìm đắm trong cảnh nô lệ đói nghèo. Những cuộc đời mới đáng thương sao, nhưng lại có những ước mơ bé nhỏ, tội nghiệp mà chân thành tha thiết và cảm động rất đáng trân trọng như ước mơ đợi tàu đêm đêm của cô bé Liên. Ước mơ đó đã lay tỉnh những tâm hồn uể oải, đang lụi tắt, đốt lên trong lòng họ ngọn lửa của lòng khao khát được sống trong cuộc sống có ý nghĩa hơn, khao khát thoát khỏi cuộc đời tăm tối đang muốn chôn vùi họ.

>> Xem thêm:  Phân tích tâm trạng nhân vật trong “Hạnh phúc của một tang gia” – văn lớp 11

Phân tích nhân vật Liên trong Hai đứa trẻ – bài 2

 

Thanh Lam là một trong những cây viết truyện ngắn xuất sắc của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Ông là thành viên của nhóm tự lực văn đoàn nhưng ông mang một nét rất riêng so với các nhà văn trong nhóm. Văn của tự lực văn đoàn thường đượm một nổi buồn lãng mạn còn văn của Thạch Lam lại chất chứa những nổi buồn hiện thực. Nó như một thứ “Hương hoàng lan”, được cất từ những nổi đời. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” in trong tập “Nắng trong vườn” (1938), tác phẩm này tiêu biểu cho phong cách của Thanh Lam. Đó là kiểu truyện ngắn trữ tình đượm buồn. Nét phong cách này thể hiện sâu sắc ở khung cảnh phố huyện và tâm trạng đợi tàu của nhân vật Liên. Truyện ngắn của Thạch Lam là kiểu truyện ngắn trữ tình buồn hiện thực, không có cốt truyện, giàu cảm xúc, nhẹ nhàng và thấm thía như một bài thơ.

 

Bức tranh phố huyện được miêu tả theo trình tự thời gian, cảnh phố huyện lúc chiều xuống. Cảnh phố huyện lúc về đêm. Cảnh đợi tàu và cảnh phố huyện lúc có chuyến tàu khuya đi qua. Liên là một cô gái nhỏ vì cha mất việc, cả nhà phải chuyển từ Hà Nội về sống ở một phố huyện nghèo…Tuy còn nhỏ mà Liên đã tỏ ra đảm đang, thay mẹ trông coi một quán tạp hóa nhỏ để kiếm sống và Liên cũng rất chu đáo khi thay mẹ chăm sóc bé An. Đặc biệt Liên là một cô gái nhỏ dịu hiền, nhân hậu, đa cảm. Tâm trạng của Liên được khắc qua bốn cảnh ở phố huyện, như bốn nấc thang tâm lí: chiều muộn, đêm về, cảnh đợi tàu và chuyến tàu khuya. Bức tranh thiên nhiên trong phố huyện khi ngày tàn được hiện lên qua điểm nhìn nhạy cảm và tinh tế của Liên. Đó là “ Một buổi chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran, ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng muỗi đã bắt đầu vo ve”. Trong bức tranh ấy có sự hòa trộn giữa hai hình ảnh: hình ảnh êm đềm lãng mạn và hình ảnh gợi sự nghèo khó, bần cùng. Phải chăng do cảnh chiều tàn mà gợi cho Liên nổi buồn: “Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen; đôi mắt chị bóng tối ngạp đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị; Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy long buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn.” Thật khó để phân định rành rọt nỗi buồn ngoại cảnh thấm vào tâm cảnh hay nổi buồn tâm cảnh lan tỏa ra, nhuốm vào ngoại cảnh. Ta chỉ thấy ở đây là một nổi buồn sâu sắc trong tâm trạng. Chỉ có sự cảm nhận tinh tế và nhạy cảm như Liên mới thấu hiểu nó. Liên tuy không lam lũ vất vả như những mảnh đời kia. Nhưng lại là số phận đáng thương nhất. Vì quá khứ tươi đẹp của hai chị em Liên đã thuộc về dĩ vãng. Hiện tại thì buồn tẻ, tăm tối, bế tắc. Đúng là cuộc sống phố huyện cứ đang tàn dần, lụi dần trong đói nghèo lam lũ quẩn quanh. Những tâm hồn mới lớn như chị em Liên, chứng kiến những cảnh đó không buồn sao được, nhưng nổi buồn cũng chỉ man mác đọng trong đôi mắt Liên “bóng tối ngập đầy dần” nó đang thấm dần vào tâm hôn Liên. Phố huyện như một sân khấu cuộc đời chỉ độc diễn một màn buồn tẻ, không có sự thay đổi của cả người lẫn cảnh. Đó là cuộc sống cứ “mốc lên, mòn đi, mục ra, rĩ ra” không lối thoát. Nó gợi liên tưởng bởi hình ảnh “chiếc ao đời phẳng lặng”.

Nhà văn không trực tiếp tả tâm trạng này của Liên, nhưng cảnh vật và cuộc sống qua cái nhìn của Liên đã khắc họa được tâm trạng đó. Sống trong hoàn cảnh như vậy, chị em Liên sao không khỏi chờ đợi một cái gì đó dù mơ hồ. Nổi buồn dường như thấm thía hơn. Nhưng không hi vọng thì làm sao sống nổi. Và chuyến tàu đêm đã thắp lên niềm hi vọng đó. Cảnh chuyến tàu khuya và tâm trạng buồn vui của Liên, trong cả chuỗi thời gian dài buồn tẻ, thì ánh sáng, tiếng còi tàu chính là niềm vui lớn của hai chị em. Hai đứa đêm nào cũng náo nức thức chờ tàu. Chúng không chờ tàu để bán hàng, đó là niềm vui tinh thần của hai chị em. Khi đoàn tàu đến Liên và An đứng cả dậy, hướng về phía con tàu, và khi nó đi rồi, “Liên vẫn lặng theo mơ tưởng”, con tàu đến rồi lại đi nhanh để lại trong hai đứa trẻ nổi buồn tiếc. Tàu đi rồi, phố huyện lại trở về với đêm tối và sự tĩnh lặng, càng nặng nề hơn. Niềm vui của hai đứa trẻ vừa lóe lên lại bị dập tắt như đám than bổng bùng lên cháy rực rồi lại lùi dần trong đêm. Nổi chờ đợi bắt đầu khắc khoải từ khi bóng chiều xuống, đêm về và phố huyện vào khuya. Hai đứa trẻ chờ đợi từng bước đi của thời gian, từng bước xích lại gần của chuyến tàu: tàu sắp đến, tàu vuột qua, tàu đi rồi chỉ còn lại ánh đèn ghi đỏ xa mãi rồi khuất sau rặng tre. Đêm tối lại bao bọc phố huyện.

Miêu tả khung cảnh phố huyện buồn, nghèo nàn, tẻ nhạt, bế tắc và tâm trạng của hai đứa trẻ đặc biệt là Liên một cách trực tiếp và gián tiếp. Qua hiện thực và hồi ức đan xen, miêu tả bằng một giọng văn nhẹ nhàng, tinh tế, giàu chất thơ, nhà văn bộc lộ niềm xót thương những kiếp người đói nghèo, cơ cực, sống quanh quẩn, bế tắc trong xã hội cũ.

Từ đó tác giả như muốn lay tỉnh những tâm hồn uể oải, đang lụi tàn. Muốn nhen lên trong họ ngọn lửa khát khao được sống một cuộc sống tươi đẹp, ý nghĩa hơn. Khát khao thoát khỏi cuộc đời tăm tối đang chôn vùi họ. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” đã thể hiện sâu sắc cái tài và cái tâm của Thạch Lam.

Phân tích nhân vật Liên trong Hai đứa trẻ – bài 3

 

Thạch Lam là một nhà văn lãng mạn tiêu biểu của Tự Lực Văn Đoàn, thế nhưng ông lại có một lối đi riêng khiến văn chương của ông vừa tràn đầy vẻ đẹp lãng mạn mà vẫn đậm chất hiện thực. Truyện ngắn tiêu biểu Hai đứa trẻ của ông đã giúp người đọc không chỉ nhìn ra sự thực cuộc đời mà còn thấy được những giấc mơ lãng mạn của con người dù cho họ có bị bỏ rơi trong nghèo khổ. Và nhân vật trung tâm của câu chuyện đó là chị em Liên.

 

Vũ trụ nghệ thuật của Hai đứa trẻ là vũ trụ của bóng tối. Chọn cái “giờ khắc của ngày tàn” để khởi đầu trang truyện và đặt nhân vật của mình vào lòng đêm thăm thẳm, bí mật và ngập tràn bóng tối, nhà văn đã rất “hiện thực” trong việc miêu tả kiếp sống con người. Trên cái nền kiến trúc cơ bản: sáng và tối, Thạch Lam đã triển khai cuộc sống cho các nhân vật của mình, từ đó làm bật lên những điều bi thiết mà nhà văn muốn gửi gắm.

Khung cảnh Hai đứa trẻ xác xơ, tiêu điều và ngập đầy bóng tối. Thế giới nhân vật hiện hình hầu hết là những cuộc đời bóng tối: đám trẻ con nhếch nhác nhặt rác ở mặt chợ, mẹ con chị Tí với một gia tài nghèo nàn thảm hại, bác Xẩm mù chỉ biết bần bật mấy tiếng đàn trên chiếc chiếu rách với cái thau sắt trắng chờ tiền thưởng nằm trống trơ trước mặt, rồi bà cụ Thi hơi điên điên, bác phở Siêu gánh phở đi bán rong…

Có thể nói, nhịp thở của phố huyện trong Hai đứa trẻ phập phồng một sự sống tàn lụi, khuất lấp. Nó xào xạc, u tối và hiu quạnh. Trong cái ao tù ấy, theo dòng chảy thời gian, những con người có tên lẫn không tên cứ hiện ra như những vụn đời bé nhỏ âm thầm, yên lặng nhiều hơn là cử động, nếu cử động thì khẽ khàng, sè sẽ, chầm chậm, từ từ: gượng nhẹ, cúi nhìn, lặng ngước mắt lên, gượng nhẹ ngồi, khẽ quạt… Họ nghĩ nhiều hơn nói, nếu nói thì nhỏ nhẹ, chậm rãi, bâng quơ, vẩn vơ, ơ hờ,… hỏi cho có chuyện, và đáp cũng vì thế phẳng lặng, nhạt nhẽo, rời rạc. Họ hoạt động theo một nếp sinh hoạt có phần máy móc, quán tính, dọn hàng chờ đợi rồi dẹp hàng, gánh phở ra phố rồi kĩu kịt gánh trở về.

Dường như đối với họ, cuộc sống chẳng bao giờ đem lại một cơ may, vì thế họ không có những dằn vặt nội tâm, hay những giằng xé về món nợ áo cơm. Ở họ, an phận là lẽ sống. Cứ thế, họ sống lặng lẽ, bình tĩnh, nhẫn nhịn, một sự nhẫn nhịn bất đắc dĩ của kiếp người. Vì thế, mong ước của họ chỉ là nỗi khắc khoải mơ hồ, chập chờn và vu vơ. Phần lớn các nhân vật trong Hai đứa trẻ được Thạch Lam lược giản tối đa để chỉ còn lại tựa hồ như những cái bóng thầm trong một vũ trụ bóng tối rộng lớn vô cùng.

>> Xem thêm:  Dàn ý để bình giảng bài thơ Vội Vàng của Xuân Diệu

Thế nhưng, trong những cái bóng nhập nhòa của đời sống phố huyện ấy lại hiện diện chỉ một tâm hồn biết sống. Tâm hồn ấy là Liên. Liên vừa hòa vào khối người trong bóng tối, vừa tách ra như một điểm nhìn đầy ý thức của ”cái tôi”. Cô bé không chịu tự đánh mất mình trong một tổng thể nhạt nhòa dễ lẫn. Mở đầu tác phẩm, người đọc bắt gặp hình ảnh Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen “đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm vào tâm hồn ngây thơ của chị” và “chị thấy buồn man mác trước cái giờ khắc của “ngày tàn”.

Liên một cô bé – người lớn, nghĩa là Liên không còn hoàn toàn trẻ con, nhưng cũng chưa phải là người lớn. Tác giả gọi Liên là “chị” vì cô bé như một trái cây chín sớm trước dòng chảy nghèo khó của kiếp người. Liên đã biết quan tâm săn sóc em bằng tình cảm trìu mến, dịu dàng như người mẹ. Liên lại đảm đang tảo tần thay mẹ quản lý cửa hàng tạp hóa như một người lớn. Liên chính là một cô bé có tâm hồn trẻ dại với những khao khát hồn nhiên, thơ ngây, bình dị nhưng đã sớm bước vào đời để kiếm kế sinh nhai. Liên chính là hiện thân của một kiếp sống nghèo khổ, an phận của con người tại một phồ huyện nghèo trước cách mạng tháng Tám.

Thế nhưng, trong cái hun hút khuya đêm, trong bóng tối tĩnh lặng của đời mình, Liên đã nhìn vào lòng đêm mà khắc khoải nhận ra một thứ hào quang cao rộng, xa xôi hơn của kiếp người. Đôi mắt mở to của cô thiếu nữ không chịu ngủ yên. Cuộc sống diễn ra trước mắt người khác sẽ lặng lẽ như một thứ ao tù, nhưng tâm hồn tinh tế nhạy cảm của Liên đã tự thấy ở cõi lụi tàn ấy cả một sự sống xôn xao. Đằng sau dáng ngồi bất động và gương mặt ưu phiền của Liên là cả một ”cái tôi” đa cảm và trầm tư. Bên ngưỡng cửa của người lớn, Liên vừa cứ hồn nhiên vừa biết lo toan, Liên đã cảm nhận cái gì đó thật mơ mộng, bâng khuâng mà cô bé không đặt tên nỗi: “Liên không hiểu tại sao chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”.

Cho nên người đọc không lạ gì khi đôi mắt ngập buồn của Liên có thể vừa nhận ra sự giống nhau vừa nhận ra sự khác nhau trong các loại đèn: đèn nhà bác phở Mỹ, đèn Hoa kỳ leo lắt ở nhà ông Cửu, đèn dây sáng xanh ở hiệu khách, đèn ma trơi của tàu,… Thế giới còm cõi, đơn điệu với cô vì thế chẳng hề vô cảm. Tiễn một ngày tàn ở phố chợ hiu quạnh, từ cái mùi âm ẩm của xác lá và rác bốc lên hơi nóng của ngày lẫn mùi cát bụi, cô cũng nhận ra ở đấy có mùi riêng của đất quê hương, ở đấy có một cái gì rất đằm thắm, rất riêng tư. Cô còn nhận ra nỗi cô đơn muốn đồng cảm níu kéo gặp gỡ của những con người ”mặc dù đòn gánh đã xỏ sẵn vào quang rồi” nhưng cứ chưa rời nhau vì cố “đứng nói chuyện với nhau ít câu nữa”. Để lắng nghe và cảm thức được những điều ấy, rõ ràng tâm hồn cô bé Liên phải hết sức gắn bó âu yếm với mảnh đất này, một sự gắn bó chỉ ở một tâm hồn lãng mạn mới có.

Ở nhân vật Liên, chúng ta có cảm tưởng rằng, Liên cũng chỉ quẩn quanh trong cái ngõ cụt như bao kiếp phận khác. Vì có gì buồn bằng bóng tối, có gì đáng sợ hơn bóng tối, ấy thế mà giữa cái tối vây quanh hun hút, Liên không thấy buồn, nhất là “đêm tối với Liên quen lắm, chị không sợ nó nữa”. Thực ra, tâm cảm của Liên đã quên bóng tối, cô để cho đôi mắt của mình bắt lấy mọi thứ ánh sáng, từ vệt đom đóm bay đến ngọn đèn con của chị Tí, từ những hột lửa của đoàn tàu bắn ra đến ”hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh”, nghĩa là từ mặt đất quá thiểu não, nặng nề, tâm hồn bay bổng đã lặng lẽ tách Liên ra khỏi cuộc đời tăm tối để sống những phút giây mơ ước hi vọng, dẫu đó chỉ là những giấc mơ hão huyền.

Hình ảnh đoàn tàu với Liên vì thế chất chứa một vẻ đẹp của ngày qua. Ở đó, lặng theo mơ tưởng, một thế giới hoài niệm nơi ký ức sâu đằm hiện lên ngân nga một dư vị ngọt ngào. Đó là một trang cổ tích ngày xưa bỏ quên ở Bờ Hồ, nơi hai chị em đã từng ”uống cốc nước lạnh xanh đỏ thần tiên”. Quá vãng đã trào lên muôn sắc hào quang, dù không rõ rệt nhưng vẫn hấp dẫn và quyến rũ mê hồn với những nhân vật lãng mạn. Vì vậy, ta hiểu vì sao Liên là nhân vật duy nhất trong phố huyện cố thức không phải chỉ để ”may ra còn có người mua” mà chỉ muốn được nhìn chuyến tàu. Đó là hạnh phúc duy nhất trong ngày, và phải chăng còn là mơ ước cả một đời ở con người. Vì thế con tàu trong mắt Liên đồ sộ lạ lẫm và đi với tốc độ phi thường, vừa tới đã vụt qua. Và cô bé đã xốn xang như uống lấy tiếng động của nó, sắc màu của nó. Thế nhưng, như một thứ trò chơi của số phận, con tàu mà Liên ngưỡng mộ khát khao đến rồi đi, trả lại cho cuộc đời thực cái bóng đêm cố hữu như số phận. Nó chỉ là một con sóng đột nhiên dội tới mặt nước bằng phẳng từ hãm của cuộc đời. Cái còn lại sau đó là môt bầu trời đầy sao, và Liên cũng như bao con người khuất lấp khác lại tiếp tục lầm lũi cẩn thận gài then cửa, vặn nhỏ ngọn đèn, khép lại cánh cửa thường nhật để gieo mình câm lặng trong bóng tối.

Nhưng ngày mai, ngày mai lại bắt đầu, và giấc mơ của Liên sẽ trở lại,… Trong mắt nhìn của Thạch Lam, nhân vật Liên là thế đấy, một nhân vật lãng mạn. Có thể nói, thiên truyện Hai đứa trẻ vừa là một bức tranh hiện thực độc đáo, vừa là một phát hiện lãng mạn đáng giá về con người. Nói như một nhà nghiên cứu, hai đứa trẻ vừa nhỏ nhoi như hạt bụi vô thường vừa là một chủ thể nhạy cảm biết nhận ra mối liên hệ với thời gian và vũ trụ, với cuộc sống và con người, luôn khát khao tự tìm kiếm lại mình trên mảnh đất đầy nỗi buồn và sự gian khó này. Chính điều này, dù chỉ với một kiếp sống mỏng manh cùng một đời văn ngắn ngủi nhưng chỉ vài trang văn ít ỏi đối thoại với đời, Thạch Lam là nhà văn gây nhiều vang vọng nhất trong sự suy tư về kiếp người.

Bằng một thứ ngôn ngữ đầy ám ảnh, ngân vang chất thơ, chất nhạc, Thạch Lam đã “phản ánh” được hiện thực những cuộc đời bé nhỏ như ”những chiếc đèn con”, nhưng tất cả tình thương của ông lại tụ hội nơi quầng sáng bé nhỏ của những tâm hồn biết đi tìm cái đẹp, niềm mơ ước, mang khát vọng được chia sẻ, được sống trong hạnh phúc ấy. Và nhờ thế khiến ông là thành viên duy nhất của Tự Lực văn đoàn đã ghi tên mình vào phía vĩnh cửu.

Phân tích nhân vật Liên trong Hai đứa trẻ – bài 4

 

“Văn học là nhân học” ( M.Gorki). Trong văn học, do vậy, vẻ đẹp nhân bản của con người luôn luôn là một phương tiện thẩm mĩ mà ở đó chất thơ và chất hiện thực hoà quyện với nhau. Để làm rõ điều vừa nói, “hai đứa trẻ” của Thạch Lam sẽ là một dẫn chứng.

 

“Hai đứa trẻ” vừa là bức tranh hiện thực phố huyện nghèo, vừa như một bài thơ trữ tình đặc sắc. Tác phẩm đã gieo vào lòng người đọc một nỗi buồn bâng khuâng dây dứt về đời sống con người.

Bức tranh hiện thực nơi phố huyện nghèo xơ xác và lại càng xơ xác, tiêu điều hơn từ cái nhìn của nhà văn. Đó là lúc hoàng hôn của một ngày tàn nơi miền quê “mặt trời đã lấp sau rặng tre, nhìn lên chỉ thấy khóm tre màu đen kịt trên nền trời phớt hồng” dàn nhạc của ếch nhái bắt đầu văng vẳng kêu ngòi đồng, thế cũng đủ làm thành cái buổi chiều êm như ru như bao chiều khác.

Như một mô típ nghệ thuật, cái phố huyện hẻo lánh lại hiện ra trong khung cảnh chợ vãn của buổi chiều chỉ còn lèo tèo vài ba người bán hàng đang thu dọn gánh, vài đứa trẻ đi thu lượm các thứ lặt vặt… Cái bức tranh ấy đã một lần hiện lên trong &ldquldquo;gió lạnh đầu mùa” nhưng sao nó vẫn nhuốm một nỗi buồn khó tả vào cái giờ khắc của ngày tàn trong “Hai đứa trẻ”.

Song bức trang phố huyện ấy không chỉ là cảnh vật mà là bức tranh cuộc sống của con người. Một hiện thực nơi miền quê hẻo lánh, một chút của chốn kinh thành được mang tới từ con tàu đêm đêm. Cuộc sống phố huyện có gì? Đó là hoạt động kiếm sống của những người mang trong mắt Liên dường như quá quen thuộc, mỗi người đã có một thói quen. Như bác phở Siêu. chị Tí, bố con nhà hát sẩm, cụ Thi điên và ngay cả Liên. Việc chủ yếu cũng chỉ là nghe tiếng trống thu không thì đóng cửa quán mà đợi chờ. Hiện thực không làm ta ngỡ ngàng đó là một phố huyện nghèo với những người cần cù lao động một cách lầm lũi đáng thương.

>> Xem thêm:  Phân tích bài thơ Hương Sơn phong cảnh ca của Chu Mạnh Trinh.

Nhưng tất cả những hiện thực như thế đều đặt trong con mắt quan sát chất chứa trong chấ văn lãng mạn.Thời gian đi vào cuộc sống của phố huyện “ rõ ràng” không vụt nhanh hoặc tan vào đêm tối. Thời gian cứ chậm rãi đi từng bước phát triển của nội tâm. Từ “tiếng trống thu không” đến một câu văn nhẹ nhàng: “Chiều, chiều rồi” cất lên trong lòng, rồi trời nhá nhem tối đến không gian đã khuya không còn những “tạp âm”, của ban ngày chỉ còn “vòm trời với ngàn ngôi sao xanh ganh nhau lấp lánh”. Mỗi thời điểm lại có một cái nhìn cảnh vật khác nhau nhưng đều có phần thi vị hoá nhờ những câu văn tươi mát, uyển chuyển.

Có buổi chiều nào êm như ru trong cách nhìn của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng? Chỉ có tâm hồn lãng mạn Thạch Lam mới có cái mượt mà đượm chất thơ như thế.

Sự tài tình chính là ở chổ nhà văn vừa hoà nhập hai tâm hồn quan sát là một. Hiểu là nhà văn quan sát cũng đúng mà hiểu cảnh vật diễn ra trong mắt của nhân vật Liên cũng chẳng sai. Ta thấy rõ điều đó qua cái giật mình của nhân vật. “Liên mãi ngồi quên mất! Bây giờ Liên vội vàng vào thắp đèn xếp những quả sơn đen lại”.

“Trời bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng gió mát”. Nhưng câu văn như vậy có rất nhiều và được dùng một cách chính xác đạt đến mẫu mực. Phải chăng cảm nhận ấy xuất phát từ tâm hồn nhà văn hay chính là từ tâm hồn của Liên khi phố huyện đã chìm trong im lìm của vắng lặng. Trong con mắt “Dõi theo những bóng người về muộn từ từ trong đêm”.

Nếu như đầu tối phố huyện còn được “trang hoàng” bằng những ánh đèn hắt ra từ những quán bên đường thì bây giờ chỉ còn là bóng đêm. Một vài tia sáng le lói từ kẻ cửa thành từng vệt. Con mắt thơ mộng đâu chỉ dừng ở những ánh sáng rất thực mà tìm đến cái mong manh của thứ đom đóm lập loè trong kẽ lá bàng lại càng gợi buồn khó tả. Ánh sáng hiếm hoi của thiên nhiên được nhà văn “ chớp” nhanh trong cái nhìn lãng mạn. Chất thơ chính là ở đó. Vừa có vài hiện thực vừa có sự bay bổng của người bút phác lên và đằm lại trên trang văn. Nhưng tất cả vẫn là cái thường nhật diễn ra trong cảnh sống vốn quẩn quanh lầm lũi.

Ánh đèn của chị Tí đủ soi một khoảnh nhỏ. Nếu quan sát từ xa, ta sẽ thấy một bức tranh khá hoàn chỉnh về mặt nghệ thuật với hai “gam màu” sáng tối. Khuôn mặt người phụ nữ chân quê chất phát đã trải qua một ngày bươn bải với cuộc sống để kiếm cái ăn, manh áo. Cuộc sống gia đình bận rộn tối tăm. Nhưng tối nào chị cũng góp một ánh đèn như thế. Tuy để làm thêm thu nhập, nhưng hình như họ chỉ bán cho lấy lệ.

Vậy thì cái gì đã làm cho họ ra đây? Phải chăng đó là nếp sống. Và phố huyện ban đêm là nơi để họ sống…Âm thanh của cuộc sống phát ra từ những lời đối thoại, những hoạt động của con người nơi đây. Mỗi người đều góp một thứ ánh sáng, một chút hương vị, âm thanh. Tất cả tạo nên một bức tranh phố nghèo.

Chẳng có một nét chấm phá nào trong bức tranh nhưng tất cả những con người có mặt đã làm nên tổng thể của cảnh vật cuộc sống.

Nếu như ở Nam Cao là những cảnh sống hiện thực khốn khổ với nước mắt của đói, miếng ăn và áp bức thì cuộc sống hiện thực trong văn Thạch Lam được “đo bằng” một đơn vị “lãng mạn” nhất định. Nét bút của ông đã phát hoạ một cách rất nhẹ nhàng uyển chuyển. Phố huyện nghèo và cũng có rất nhiều lý do để người dân phải lao vào cuộc bon chen giành dật sự sinh tồn. Nhưng ở đây là một không khí chan hoà thực sự, ấm áp tình người và mỗi người khi ra về chắc chắn vẫn giữ được sự ấm áp quen thân dù rất buồn.

Sự hài hoà giữa hiện thực và lãng mạn đã giúp Thạch Lam có được chất văn nhẹ nhàng thanh thoát, ẩn hiện nhân cách tuyệt vời của ông.

Trở lại với cảnh sinh hoạt ban đêm nơi phố huyện, chất lãng mạn không dừng lại ở cảnh bao quát mà đắm lại ở những trang viết về chị em Liên. Đây chính lả điểm nhà văn đã tập trung khắc hoạ. Liên gây ấn tượng bởi nội tâm sâu sắc, xuất phát từ một con người đa cảm. Khi màn đêm đã bắt đầu buông xuống cũng chính là lúc Liên thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn. Cảm giác buồn ấy gợi lên từ cảnh phố huyện xơ xác buồn trong tiếng trống thu không vang vọng như hút hồn người. Bất giác, một cảnh tượng làm chị không khỏi chạnh niềm thương: đó là những chú bé nheo nhóc nhớn nhác giữa chợ đã vãng từ lâu để nhặt những mẫu que kem và những gì còn có ích cho chúng. Ấn tượng đầu tiên là Liên có một tấm lòng chẳng trẻ con chút nào. Tư thế của một người chị còn bé hơn thế nữa, nỗi lòng buồn báo hiệu một sự “trưởng thành” về tâm sinh lí.

Bức tranh phồ huyện nghèo hẻo lánh, ẩn khuất trong bóng tối hư vô của phố huyện. Cuộc sống phố huyện đã ăn sâu trong tâm trí Liên. Tưởng như nếu có thiếu một thứ gì của cảnh ngoài kìa, Liên đã thốt lên rồi. Nhưng tất cả vẫn thế, ngay cả tiếng cụ Thi đôi lúc làm cho Liên sợ. Nhưng cảm giác thân thuộc vẫn thấy cụ đáng yêu và đáng thương. Từng cảnh đời, cảnh sống của mỗi người lần lượt đi qua tâm hồn tưởng như non nớt của Liên.

Cuộc sống của từng người đã góp nên thành cuộc sống của cả một quần thể người dân quê nghèo khó. Từ những mảnh đời cũng giống như Liên cùng chung môi trường sống, ta thấy một điểm chung rất rõ, đó là sự quanh quẩn chật hẹp của môi trường xã hội. Ngày lại ngày vẫn chỉ là cái chợ tiêu điều, vài dãy hàng quán với những khoảnh đất trống “Lá đa lác đác trước lều” và những “con người ấy” mà thôi.

Nhưng ở Liên lại có một sự khác lạ mà trong số trên chẳng có ai. Một hành động tưởng như quái gở và vô nghĩa, đó là “đợi tàu”. Nếu mẹ Liên ở đó chắc không cho cô thức. Nhưng đó mới chính là chiều sâu của tác phẩm khi tác giả khắc hoạ hình ảnh Liên cùng em đợi tàu với một niềm háo hức rất trẻ con.

Và con tàu đã đến đúng như sự mong mỏi, đợi chờ, như một thoáng niềm vui cũng chợt tắt. Tàu hôm nay không đông khách, ánh sáng của toa tàu cũng kém đi. Điều đó càng làm lòng Liên có một mỗi buồn vô hình xâm lấn. Con tàu vô cảm lầm lũi mang đến niềm vui duy nhất nhưng lại chợt gợi thêm nỗi buồn khó tả. Tiếng rầm rầm của tàu đã lẩn khuất sau màn đêm dáy đặc, không gian của phố huyện thoáng giao động rồi lại trở về như xưa. Tâm trạng của Liên bây giờ chẳng biết nên vui hay nên buồn. Vui có lẽ đúng hơn vì hàng ngày chuyến tàu vẫn là niềm mong mỏi của chị. Có người nói “chờ đợi là một điều khủng khiếp”; song, không có gì để chờ đợi lại càng khủng khiếp hơn. Với Liên điều khủng khiếp chính là niềm vui mà chị có thể tự tạo cho mình. Chất lãng mạn ngay trong cảnh đợi tàu. Cảnh đợi tàu ở đây tuy có khác với cảnh đợi tàu trên sân ga nhưng lại vẫn chung một nỗi niềm mong mỏi. Điều đáng nói hơn là duy chỉ một cô bé Liên đợi. Cuộc sống bon chen đã không làm chị chìm trong cảnh đời lầm lũi, thầm lặng. Vượt xa hơn là một tâm hồn khát khao niềm vui của cuộc sống. Tuy cuộc sống buồn nhưng vẫn tạo được nhiềm vui để mình sống có ý nghĩa hơn trong cõi đời. quả thực, tâm hồn Liên là một bài thơ có cấu tứ khá hoàn chỉnh; nhưng đó là một sự thật hiển nhiên mà Thạch Lam đem lại. Cho đến nay, chị vẫn sống với một niềm vui của chuyến tàu đem lại. “Liên” là mảng màu chủ đạo tạo nên chất hiện thực và chất lãng mạn trong thiên truyện. tạo nên bằng một cuộc đời. tạo nên như là người dẫn chuyện.

Thành công của thạch Lam chính là sự kết hợp hài hoà giữa bút pháp lãng mạn với xu hướng hiện thực, nhân đạo. Tạo cho mỗi tác phẩm của ông một sức sống trường tồn cùng lòng người. Tình người của nhà văn với nhân vật đã đưa ý nghĩa truyện lên một tầng cao mới. Ai đó đã định nghĩa về thơ: “Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời còn là thơ nữa” thì truyện ngắn “Hai đứa trẻ” và nhiều thiên truyện khác nữa của thạch lam có đầy đủ những yếu tố mang phong vị của một bài thơ trữ tình đặc sắc mà lại “cuộc đời” thật nhiều sâu sắc.

Trên đây là bài tập làm văn phân tích nhân vật Liên trong Hai đứa trẻ, chúc các bạn làm tốt bài văn của mình!

Theo Kienthucthamkhao.com